CÔNG TY TNHH THUỐC THÚ Y NĂM THÁI

BỆNH CẦU TRÙNG

Bệnh Cầu trùng gà là một bệnh ký sinh trùng truyền nhiễm rất phổ biến ở gà nuôi theo lối tập trung công nghiệp. Bệnh gây nhiều thiệt hại về kinh tế bởi gây ra những hậu quả như sau:

- Ở gà con: Bệnh làm tăng số gà còi cọc, chậm lớn, làm giảm khả năng kháng bệnh của cơ thể, gây chết từ 30-100% số gà (nếu không điều trị kịp thời).

- Ở gà đẻ: Bệnh gây giảm năng suất trứng từ 10-20%, giảm khả năng kháng bệnh và là nguyên nhân gây tiêu chảy hàng loạt.

Từ đó, bệnh Cầu trùng làm tăng chi phí chăn nuôi: Khối lượng thức ăn tăng cao trong khi thịt và trứng đều bị giảm mạnh, chi phí cho thuốc phòng và trị lớn.


BỆNH CẦU TRÙNG

  1. BỆNH CẦU TRÙNG
  2. Định nghĩa bệnh

Bệnh Cầu trùng gà là một bệnh ký sinh trùng truyền nhiễm rất phổ biến ở gà nuôi theo lối tập trung công nghiệp. Bệnh gây nhiều thiệt hại về kinh tế bởi gây ra những hậu quả như sau:

- Ở gà con: Bệnh làm tăng số gà còi cọc, chậm lớn, làm giảm khả năng kháng bệnh của cơ thể, gây chết từ 30-100% số gà (nếu không điều trị kịp thời).

- Ở gà đẻ: Bệnh gây giảm năng suất trứng từ 10-20%, giảm khả năng kháng bệnh và là nguyên nhân gây tiêu chảy hàng loạt.

Từ đó, bệnh Cầu trùng làm tăng chi phí chăn nuôi: Khối lượng thức ăn tăng cao trong khi thịt và trứng đều bị giảm mạnh, chi phí cho thuốc phòng và trị lớn.

  1. Nguyên nhân gây bệnh

 Bệnh Cầu trùng do một loại đơn bào họ Coccidae gây ra, vì thế bệnh có tên khoa học là Coccidiosis avium. Nói chính xác hơn, bệnh Cầu trùng do gần chục chủng Eimeria tạo nên, chúng gồm: Eimeria Tenella, Eimeria Necastrix, Eimeria Acervulina, Eimeria Magna, Eimeria Mivati, Eimeria Bruneti, Eimeria Maxima, Eimeria Praecox,...

Mỗi loại Eimeria thường ký sinh ở một đoạn ruột nhất định. Ví dụ: E. Tenella thường ký sinh ở ruột thừa (ruột mù); E. Acervulina và E.Mivati thường khu trú ở đoạn dưới tá tràng và trên không tràng; E. Necastrix thường sống ở đoạn giữa của không tràng và hồi tràng; E. Maxima khu trú ngay giữa không tràng; E. Bruneti thì ký sinh ở giữa đoạn cuối không tràng và kết tràng.

Căn cứ vào nơi cư trú mà khi bệnh xảy ra chúng ta có thể kết luận được loại Eimeria nào gây nên bệnh. Trong những loại Eimeria kể trên thì Eimeria Tenella là nguy hiểm nhất (cầu trùng ruột thừa).

  1. Dịch tễ bệnh Cầu trùng

Tuy là bệnh ký sinh trùng được phát hiện cách đây hơn 380 năm nhưng cầu trùng truyền nhiễm vô cùng nguy hại, bệnh vẫn tồn tại và phát mạnh cho đến ngày nay. Bệnh lây lan rất nhanh trong đàn gà chủ yếu qua đường miệng.

Khi noãn nang cầu trùng theo phân ra ngoài gặp không khí chúng tạo thành bào tử để có thể tồn tại và tiếp tục phát triển trong điều kiện khắc nghiệt ngoài cơ thể. Các bào tử đó sống rất lâu ngoài thiên nhiên và là mầm bệnh tiềm tàng nguy hiểm. Chúng dễ dàng phát tán gây ô nhiễm môi trường xung quanh, để rồi từ đó lây nhiễm ra các khu vực chăn nuôi khác.

Bệnh Cầu trùng xảy ra ở gà từ 10 ngày tuổi trở lên đối với cơ sở chăn nuôi lứa đầu và có thể sớm hơn ở những cơ sở đã chăn nuôi thường xuyên nhiều lứa.

Mọi dòng giống gà và mọi lứa tuổi của gà đều có thể bị bệnh. Song bệnh thường thấy ở gà con từ 10-60 ngày tuổi, nặng nhất ở gà 18-45 ngày tuổi.

Các yếu tố bất lợi như: chuồng trại ẩm thấp, kém thông thoáng, vệ sinh chăn nuôi không đảm bảo, mật độ đông, khí hậu nhiệt đới có tác dụng thúc đẩy bệnh dễ bùng phát và trầm trọng hơn.

Thời kỳ bệnh từ 4-7 ngày, do đó bệnh Cầu trùng thường thấy ở gà từ 10 ngày tuổi trở lên.

Bệnh phát ra có tính thuận nghịch: Từ cấp tính chuyển sang mạn tính và ngược lại.

  1. Cơ chế phát triển và sinh bệnh Cầu trùng

Sau khi noãn nang cầu trùng theo phân ra ngoài, chúng tự tạo vỏ bọc trở thành bào tử trong nó hình thành ra 4 tiền bào tử non. Khi gà ăn uống phải những bào tử đó dưới tác dụng của dịch dạ dầy ruột, vỏ bào tử bị phá vỡ và giải phóng ra 4 bào tử chưa chín. Chúng lập tức chui vào và ký sinh trong các tế bào biểu bì ruột, mật, thận. Trong các tế bào biểu bì đó, chúng sinh sản bằng cách tự nhân đôi. Như vậy, chỉ trong một thời gian rất ngắn, trong mỗi tế bào biểu bì, ống ruột, ống mật, thận có hàng trăm hàng ngàn căn nguyên cầu trùng non – ta gọi chúng là thể phân lập thế hệ I. Với tốc độ sinh sản nhanh như thế, chúng phá vỡ cấu trúc tế bào biểu bì ruột, mật, thận, chui ta ngoài và tiếp tục thâm nhập vào hàng triệu tế bào biểu bì mới của niêm mạc ruột, mật, thận,… Trong các tế bào biều bì đó, các thể phân lập thế hệ I tiếp tục phát triển và sinh sản theo cách tự nhân đôi và tạo ra các thể phân lập thế hệ II. Cứ như thế, theo kiểu phản ứng dây truyền hạt nhân, chúng hình thành nên thể phân lập thế hệ III, IV… Và cũng theo cách đó, chúng phá hủy cấu trúc tế bào biểu bì ruột, mật, thận và gây ra viêm xuất huyết niêm mạc ruột. Tùy theo loại cầu trùng, đến thể phân lập cuối cùng, chúng hình thành giao tử đực và cái. Giao tử cái bao giờ cũng lớn hơn giao tử đực. Sau khi phát triển đạt đến mức nhất định thì giao tử đực chui vào giao tử cái để hình thành quá trình thụ tinh - sinh sản hữu tính. Các giao tử đực và cái được bọc chung một vỏ mềm và khi ấy chúng được gọi là noãn nang cầu trùng. Các noãn nang đó chui ra khỏi tế bào biều bì và rơi vào lòng ruột, kết thúc 2 giai đoạn phát triển cầu trùng trong cơ thể gà. Giai đoạn 3 bắt đầu khi noãn nang theo phân ra ngoài và chúng phát triển ở ngoài cơ thể, chúng sống trong môi trường thiên nhiên như đã nói ở phần đầu.

Tóm lại: Quá trình phát triển cầu trùng gồm 3 giai đoạn: Bào tử nang – thể phân lập thế hệ I, II, III (giai đoạn I)…; giao tử - noãn nang (giai đoạn II); noãn nang- bào tử nang (giai đoạn III). Trong đó, giai đoạn I và II là thời kỳ nung bệnh và phát triển bệnh cầu trùng trong cơ thể , giai đoạn III là nguồn bệnh ở môi trường ngoài cơ thể gia cầm.

Việc hàng loạt tế bào biểu bì ruột bị phá vỡ không những gây viêm xuất huyết, chảy máu mà còn mở cửa thuận lợi cho nhiễm trùng thứ phát và phổ biến nhất là E.coli gây nên bệnh ghép nguy hiểm cấp tính. Khi đó, bệnh được gọi là cầu trùng ghép coli bại huyết.

  1. Triệu chứng bệnh Cầu trùng

Thời kỳ ủ bệnh 4-7 ngày, do đó bệnh Cầu trùng thường thấy ở gà từ 10 ngày tuổi trở lên nhưng cũng có thể phát ra sớm hơn.

Bệnh có ba thể biểu hiện là cấp tính, dưới cấp và mạn tính. Các thể bệnh phát ra phụ thuộc chủ yếu vào số lượng noãn nang cầu trùng, chủng loại cầu trùng thâm nhập vào cơ thể và tuổi gà mẫn cảm.

  1. a) Thể cấp tính

Sau thời gian nung bệnh, cả quá trình diễn biến được ghi nhận qua các biểu hiện lâm sàng chỉ kéo dài từ 3-7 ngày.

- Lúc đầu gà giảm ăn uống nhiều nước, buồn ngủ, ỉa ra phân loãng sống (do thức ăn không tiêu hoá hết).

- Khi có hiện tượng viêm xuất huyết ở ruột, gà đứng cù rù, lẻ loi hoăc tụm đống lại một góc chuồng. Quan sát những gà đứng ta thấy cổ gà rụt, mắt nhắm nghiền, hai cánh sã chạm gần sát nền (như khoác áo tơi). Lúc này phân gà sệt màu sáp nâu có gợn máu hoặc toàn máu tươi. Gà nhợt nhạt và rất yếu vì thiếu máu. Nhiều trường hợp gà đi ngoài toàn máu tươi và chết rất nhanh. Một số gà có sức đề kháng tốt thì ỉa ra phân đen như than nhưng nếu không được điều trị ngay chúng cũng sẽ chết rất nhanh.

- Khi vạch hậu môn gà để khám, thỉnh thoảng chúng ta thấy có dính máu hậu môn.

- Một số con gà có biểu hiện thần kinh hoặc bán liệt chân hoặc cánh.

- Thể cấp tính gây chết gà trong thời gian 3-4 ngày, tỷ lệ chết 70-80% số gà bệnh (nếu không điều trị kịp thời), số gà còn lại chuyển sang mạn tính.

  1. b) Thể dưới cấp bệnh Cầu trùng

- Thể dưới cấp bệnh Cầu trùng xảy ra từ các trường hợp:

+ Gà ốm ở thể cấp tính còn sống chuyển sang thể dưới cấp tính.

+ Đàn gà đã được phòng cầu trùng bằng một số loại thuốc nhưng do dùng thuốc không đúng quy trình hoặc không đủ liều phòng.

+ Tuổi gà càng cao thì gà có sức đề kháng với bệnh càng tốt, cho nên bệnh Cầu trùng thể dưới cấp thường thấy ở gà lớn (2-3 tháng tuổi trở lên).

- Các biểu hiện thể dưới cấp tính hoàn toàn giống như thể cấp tính nhưng ở mức độ nhẹ hơn:

+ Gà kém ăn, uống nhiều nước, ỉa chảy loãng phân sống lúc đầu, sau đó phân màu sáp nâu gợn máu hoặc lẫn máu.

+ Gà thiếu máu nhợt nhạt, xù lông hay nằm tụm đống, kêu khác lạ một cách yếu ớt. Gà gầy xọp đi rất nhanh. Nếu không kịp thời điều trị thì một phần gà (15-30%) sẽ chết. Bệnh kéo dài hàng tuần phụ thuộc vào tuổi gà bị bệnh.

  1. c) Thể mạn tính (thể mang trùng)

            Gà lớn thường mang mầm bệnh tuy nhiên các dấu hiệu bệnh không rõ ràng và ít được chú ý. Gà vẫn ăn uống bình thường nhưng thi thoảng bị ỉa chảy có vẻ như vô cớ. Ở gà đẻ, sản lượng trứng bị tụt 15-20% nhưng người chăn nuôi không hiểu rõ nguyên nhân tại sao.

  1. CẦU TRÙNG GHÉP E.COLI BẠI HUYẾT

            Bệnh Cầu trùng ghép E. coli bại huyết thường xảy ra ở gà con và chủ yếu ở gà từ 18 - 45 ngày tuổi. Mức độ bệnh ghép gắn liền với cường độ nhiễm noãn nang cầu trùng thâm nhập vào cơ thể gà. Chúng phá hủy đồng loạt hàng triệu tế bào biểu bì niêm mạc ruột tạo điều kiện cho E.coli chủng O phát triển và chui vào đường huyết, gây nhiễm trùng huyết cấp tính. Trong đường máu, E.coli không tồn tại lâu, chúng bị chết và giải phóng ra một loại độc tố gọi là Endotoxin. Loại độc tố này tiếp tục phá vỡ hồng cầu và thành mạch máu gây xuất huyết nặng. Độc tố Endotoxin còn gây tác hại đến thần kinh làm cho gà bị rối loạn hệ vận động và toàn thân bị nhiễm độc cấp. Thời gian phát bệnh rất ngắn từ 1-2 ngày, vì thế chúng ta dễ dàng nhìn thấy đàn gà đang béo tốt, khỏe mạnh bỗng dưng ỉa chảy ra máu tươi toàn phần rồi chết. Một số gà có sức khỏe tốt, sau vài giờ ỉa ra máu tươi thì chuyển sang ỉa phân đen. Nếu chúng ta không chữa trị ngay thì 6-8 giờ sau chúng cũng sẽ chết. Những gà chết do Cầu trùng ghép E.coli bại huyết thông thường xác vẫn còn béo tốt, thịt và các cơ quan khác (ngoài ruột) hầu như hoàn toàn bình thường. Tỷ lệ chết do bệnh ghép rất cao 100%, toàn bộ diễn biến bệnh ghép chỉ kéo dài 1-3 ngày.

Tin tức liên quan

Loading...